Phụ Lục
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng đầu Công nguyên, và tồn tại cùng với sự thăng trầm của đất nước qua những cuộc ngoại xâm và nội chiến. Trong sự cộng tồn với dân tộc Phật giáo đã có những đóng góp quan trọng về mọi lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội… Dưới triều đại Lý và Trần kéo dài từ 1010 CN đến khoảng 1400 CN, là giai đoạn hoàng kim của cả Phật giáo và đất nước. Trong sự đóng góp lớn lao của Phật giáo, nổi bật là nhiều những vị thiền sư với những tài năng xuất chúng như Vạn Hạnh, Minh Không…với những dòng thiền du nhập từ ngoài vào như Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, và đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm mang bản sắc của dân tộc mà Trần Nhân Tông là Sơ tổ.
Đặc biệt ba vị vua đầu thời Trần – Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông – là những thiền sư uyên thâm về Phật lý ngang qua thân chứng của pháp hành thiền.Một hôm, Trần-Nhân-Tông hỏi Tuệ-Trung Thượng-Sĩ về tôn chỉ của thiền định. Tuệ-Trung Thượng-Sĩ trả lời: “Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được.”[1]
Thiền của phái Trúc Lâm là thiền Thượng thừa được truyền từ Ấn Độ, sang Trung Quốc và đến Đại Việt:
Tuệ mà không đạt được định thì còn gọi là tuệ cằn, định mà không đạt được tuệ, cũng gọi là thiền si. Còn nói về thiền thì có năm bậc: thứ nhất là phàm phu; thứ nhì là ngoại đạo; thứ ba là Tiểu thừa; thứ tư là Đại thừa; thứ năm là Thượng thừa. Cái gọi là ‘thiền’ ở đây là thiền Thượng thừa vậy. Từ Tỳ-lư-giá-na, trải qua không biết bao nhiêu số kiếp mới đến Thích Ca Mâu Ni. Truyền xuống đến hai mươi tám vị tổ Tây thiên, sáu vị tổ Đông độ, tổ này trao tay cho tổ khác, đến mức mênh mông tít tắp, kể không hết được. Tất cả đều từ cái ‘giới’ ấy, cái ‘định’ ấy, cái ‘tuệ’ ấy mà được chứng ngộ; không nhờ đâu khác.[2]
Về môi trường thiên nhiên, cũng như đức Phật và các thiền sư Phật giáo Việt Nam khác, các thiền sư thời Trần đều ca ngợi cảnh đẹp rừng núi, sắc trời, chim muông…Trong bài Xuân cảnh, thi sĩ Trần Nhân Tông viết:
春景
楊柳花深鳥語遲
畫堂詹影暮雲飛
客來不問人間事
共倚欄杆看翠微
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi.
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Dịch nghĩa: Cảnh xuân
Trong đám hoa dương liễu rậm rạp, chim hót chậm rãi,
Che bóng thềm hoa, mây chiều bay.
Khách đến chơi không hỏi việc nhân gian,
Cùng tựa lan can ngắm màu xanh chân trời[3].
Một không gian thiên nhiên của cỏ cây, chim muông, trời đất thật nhẹ nhàng thanh thoát, bỏ ngoài tai những ồn ào thị phi phiền não của nhân thế, để cùng nhau người – cảnh chan hòa đồng nhất. Bài Xuân vãn, cho chúng ta hiểu thêm con đường ngộ đạo Thiền của thiền sư, thi sĩ Trần Nhân Tông cảm xúc:
春晚
年少何曾了色空
一春心在百花中
如今勘破 東皇面
禪板蒲團看墜紅
Niên thiếu hà tằng liểu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.[4]
Dịch nghĩa: Cuối xuân
Thời trẻ đâu biết được lẽ sắc không,
Xuân đến lòng để trong trăm hoa.
Đến nay đã khám phá diện mạo chúa xuân,
Ngồi trên tấm bồ đoàn giữa thiền bản ngắm cánh hồng rụng
Khi chưa ngộ được bản chất sinh-diệt của vạn vật vũ trụ thì chủ thể bị thu hút vào cảnh đẹp của trần thế. Nhưng khi ngộ rồi, thấy được bản chất tánh không, hư ảo của thế gian thì hồng tươi và hồng rụng đều giống nhau về bản thể không thật của chúng. Thiền sư đã đồng nhất, đồng cảm hay nhất tâm, bất nhị (non-duality, advaya) giữa chủ thể – khách thể, giữa con người và đối tượng, môi trường bên ngoài, một niềm hạnh phúc vô biên dâng tràn trước mọi hoàn cảnh!
Trần Nhân Tông cũng đặt mục tiêu là “thanh nhàn” với những phương tiện rất đơn sơ mộc mạc, cảnh lặng, gió mát, gốc cây, kinh, sàng tọa thiền… Chính trong không gian yên ắng đó mà thuận lợi cho sự thăng hoa của tâm hồn!
Cảnh tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm,
Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển,
Lưỡng tự ‘thanh nhàn’ thắng vạn kim[5].
Dịch nghĩa:
Sống yên giữa cảnh lặng lòng không,
Gió mát hiu hiu lọt bóng thông.
Dưới gốc, giường thiền, kinh một quyển,
Thanh nhàn hai chữ, đáng muôn đồng
Thích Tâm Đức
[1] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 546
[2] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 667.
[3] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 460.
[4]. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 463.
[5] Chú thích trong khung màu đỏ của mộc bản.