Ý dẫn đầu các pháp

Nội dung chính
Comments

Phụ Lục

Hôm nay thật là duyên lành để chúng ta có thể nghe lời Đức Phật dạy. Chúng ta nên nghe Pháp nhiều lần, có thể nghe từ một vị Giảng Sư hoặc từ nhiều vị Giảng Sư khác nhau. Khi nghe nhiều lần thì sự hiểu được sâu xa hơn. Nên việc nghe Pháp rất quan trọng là quá trình tu học của người Phật Tử: Văn, Tư, Tu. Văn là nghe. Tư là suy nghĩ, quan sát và có tư duy trong đó. Sau khi suy tư, quán tưởng lời Đức Phật dạy thì tu, tức là hành trì. Như vậy quá trình tu học của chúng ta là nghe, suy tư và thực tập. Chương trình tu học của quý Phật tử ở đây rất hay, kết hợp đầy đủ nghi lễ và nghe Pháp, hai điều này bổ sung cho nhau. Nay mai khi hữu duyên biết thêm một pháp môn Thiền nữa, thì kết hợp nhiều cái rất hay. Thật ra trong Pháp môn của Đức Phật không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn hay không là do mình hiểu sai chứ không phải là do các pháp môn sai.

Lần trước chúng ta đã học bộ Kinh Pháp Hoa, một bộ Kinh quan trọng của Đại thừa Phật Giáo, giai đoạn của Phật Giáo phát triển về sau này. Còn hôm nay chúng ta nghiên cứu về bộ Kinh Pháp Cú thuộc giai đoạn đầu Đức Phật còn tại thế. Chúng ta thấy rằng lối trình bày ngôn ngữ khác nhau, nếu bên Bộ Kinh Pháp Hoa lời lẽ bóng bẩy như thần thoại thì bộ Kinh này gần gũi, thực tế với đời thường tuy nhiên ý nghĩa rất sâu sắc.

Bộ Kinh này là Pháp Cú (Dhammapada). Dhamma là Pháp. Pada là Cú (câu). Chữ Pháp này có nhiều nghĩa. Nghĩa thứ nhất là trạng thái chứng ngộ của Đức Phật, có thể nói đây là một định lý siêu nhiên, vượt thời gian và không gian, nghĩa là đúng bất kỳ ở đâu và bất kỳ thời gian nào. Trạng thái Đức Phật chứng ngộ hay định luật mà Ngài khám phá ra đúng trong quá khứ, đúng trong hiện tại, đúng trong tương lai và đúng trong bất kỳ nơi đâu trong vũ trụ này. Pháp này còn có ý nghĩa là các định luật của thế gian, những định luật của tự nhiên như là sức hút của trái đất, sức đẩy của nước,…Chữ Dhamma cũng là pháp môn tu tập của Đức Phật như Giới, Định, Tuệ, Lục độ ba la mật. Pháp đây còn chỉ cho một ý nghĩa nữa là chỉ cho các sự vật hiện tượng trên vũ trụ này như nỗi buồn, niềm vui, con người, con vật,….Pháp có nhiều ý nghĩa rộng rãi. Cú là Câu. Như vậy Pháp Cú có thể nói là lời dạy của Đức Phật được viết lại thành những câu kệ. Trong bộ Kinh Pháp Cú có 423 câu kệ chia thành 26 phẩm được minh hoạ bằng 305 câu chuyện. Những câu chuyện này giúp cho người học dễ nhớ, tuy nhiên chúng ta không có nhiều thời gian để đi sâu vào câu chuyện này. Chúng ta tập trung vào phân tích ý nghĩa của các phẩm. Cụ thể hôm nay chúng ta phân tích phẩm đầu tiên là phẩm số 1 – Phẩm Song Yếu. Chữ Song là đôi, Yếu là quan trọng. Phẩm đầu tiên thường là phẩm quan trọng giống như trong bộ Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm thì phẩm số 1 rất quan trọng, nếu hiểu phẩm số 1 thì không cần hiểu 27 phẩm còn lại. Bộ Kinh Pháp Cú cũng vậy, phẩm chúng ta học hôm nay rất quan trọng. Phẩm số 1 – Song Yếu có 20 câu kệ, các câu kệ đi cặp với nhau. Hai câu kệ là một cặp như kệ số 1 đi cặp với kệ số 2, kệ số 3 đi cặp với kệ số 4, kệ số 5 đi cặp với kệ số 6, kệ số 7 đi cặp với kệ số 8,…cho đến câu kệ 19 đi cặp với câu kệ 20.

Câu kệ số 1:

Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.

Câu kệ số 2:

Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.

Hai câu kệ này đề cập đến một Pháp rất quan trọng là “Ý”. Nội dung nói rằng nếu ý bất thiện thì khổ não sẽ đi theo giống như xe đi theo vật kéo, như con trâu kéo chiếc xe bò, con trâu đi đâu là chiếc xe theo đó. Câu kệ  số 2 đối lập lại, nếu ý thanh tịnh thì an lạc sẽ đi theo. Hai câu kệ số 1 và số 2 đối lập nhau. Ý là tên gọi khác của tâm,  mọi việc là do tâm biểu hiện. Tâm là một dạng năng lượng rất đặc biệt, nó điều khiển, chi phối mọi hoạt động của con người. Tâm khi suy nghĩ nó có tên là ý, ý thức, tác ý, suy nghĩ. Hoạt động của con người có ba loại nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Nghiệp là hành động bởi tác ý, tư duy, suy tưởng. Trong ba hành động này, thân, khẩu do ý quyết định. Ý đóng vai trò chủ chốt và được bộ Kinh Pháp Cú đưa lên đầu tiên.

Nếu ý khởi lên bất tịnh: tham, sân, si thì khổ đau sẽ theo. Nếu ý không khởi lên bất tịnh thì an lạc bước theo sau. Trong Đại Thừa Phật Giáo gọi là Duy thức học thì các Pháp là do tâm biến hiện. Tâm của con người là rất quan trọng. Trong bài Pháp đầu tiên Đức Phật giảng tại Lộc Uyển (Vườn Nai)  cho năm anh em Kiều Trần Như, Đức Phật dạy cuộc đời này có 4 sự thật: sự thật thứ nhất là Khổ; sự thật thứ 2 là nguyên nhân của Khổ; sự thật thứ 3 là Khổ diệt hay còn gọi là Niết Bàn (bây giờ gọi là Cực Lạc); sự thật thứ 4 là con đường đưa đến Khổ diệt hay con đường đưa đến Niết Bàn. Con đường này là Bát Chánh Đạo gồm có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Bát chánh đạo bắt đầu từ chánh kiến và chánh tư duy. Chánh kiến là cái nhìn đúng đắn hay quan niệm đúng đắn. Thông thường phàm phu thường nhìn các sự vật không đúng đắn, họ nghĩ rằng bản thân, tài sản, của cải, con cái, địa vị,… là của họ. Do vô minh chi phối nên họ tưởng rằng những thứ đó tồn tại mãi mãi. Họ cũng nghĩ rằng họ tồn tại mãi mãi nên nắm giữ, chấp thủ, bám víu vào các thứ đó. Nhưng với quy luật vũ trụ, các sự vật trên cõi đời này đều sinh và diệt. Có sinh thì có diệt. Phàm phu hay chúng sinh nói chung khi thấy sự vật hoại diệt đâm ra đau buồn, than khóc. Người trí là người có chánh kiến. Họ thấy được tất cả sự vật, hiện tượng trên đời này là thay đổi, tất cả những gì sở hữu của họ đều thay đổi, có đó rồi mất đó.

Trong một bài Kinh khác Đức Phật nói khi chết đi thì chúng sanh không mang theo được gì ngoài nghiệp. Những thói quen là một dạng năng lượng kết tinh bằng những thiện hay ác được tích luỹ khi mình còn tại thế. Những năng lượng đó đi theo qua kiếp khác thay đổi từ con người có thể thành chúng sinh ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, người, chư thiên hay thay đổi giới tính,… Nếu làm những việc thiện thì những năng lượng đó có khuynh hướng đi theo con đường thiện, hưởng quả báo thiện. Còn khi làm những việc bất thiện thì trong vỏ não hiện lên những khe rãnh xu hướng bất thiện, những năng lượng đó tích tụ sẽ đi theo qua kiếp khác, hưởng quả báo bất thiện. Không nói đâu xa, ngay trong kiếp sống hiện tại nếu mình chăm chỉ học hành thì mỗi ngày mỗi tiến bộ, mỗi ngày hiểu biết, ngược lại nếu ăn chơi hút sách, không chịu học hành thì ngày càng đần độn, không hiểu biết là quả báo. Do đó ý nghiệp là rất quan trọng.

Chánh kiến là quan niệm rằng các sự vật trên cuộc đời này là vô thường, thay đổi, các pháp là Khổ. Khổ ở đây chúng ta cần hiểu rằng không phải là khổ ăn, khổ mặc mà Khổ ở đây mang tính triết học. Khổ ăn, khổ mặc là theo quan niệm thế gian. Khổ theo quan niệm Phật giáo là sự biến chuyển. Sự vật biến chuyển theo hoại diệt, sanh rồi diệt, chính sự thay đổi đó là Khổ. Sự biến chuyển làm chúng sinh hụt hẫng. Chúng sinh thì bám giữ nhưng mọi vật thì thay đổi, ví dụ như trong đời sống gia đình, ai cũng muốn vợ chồng được sống với nhau đến khi tóc bạc răng long. Nhưng thực tế thay đổi, nhiều người mới kết hôn vài tháng đã tan vỡ, nhiều người lâu hơn vài năm, vài chục năm, có lâu lắm hết cuộc đời rồi cũng chia tay, chính sự thay đổi này là Khổ. Chúng ta thấy Đức Phật và Chư Tăng thời xưa khất thực ngày ăn một bữa nhưng vẫn hạnh phúc vì các Ngài đã thấu suốt chân lý này.

Chánh kiến là thấy sự vật vô thường, khổ và vô ngã. Ngã là một khái niệm trừu tượng chỉ cho một sự vật tồn tại mãi và con người do vô minh chi phối nên nghĩ rằng mình tồn tại mãi nhưng thật tế không phải như vậy, chúng ta đang thay đổi từng giờ, từng phút, từng giây. Chúng ta thấy trong một kiếp người có khi thay đổi cả giới tính, người nam chuyển qua người nữ và người nữ chuyển thành người nam. Có khi qua kiếp sống kế tiếp thay đổi, như kiếp này làm thân nam kiếp sau làm thân nữ hoặc ngược lại, hay kiếp này làm người, kiếp sau làm súc vật. Phật giáo không có cái nhìn bất di bất dịch mà mọi sự vật luôn thay đổi và tuỳ duyên. Chánh kiến là phải nhìn sự vật như vậy.

Đức Phật dạy vô thường, khổ, vô ngã và chính vô ngã này là sự độc đáo của Phật giáo. Các tôn giáo khác trên thế giới đều quan niệm có Ngã, biểu hiện qua Thượng đế. Thiên chúa giáo có thượng đế của Thiên chúa giáo. Hồi giáo có thượng đế của Hồi giáo, Bà La Môn có thượng đế của Bà La Môn. Các tôn giáo đều có Thượng đế, là người có quyền năng chi phối tất cả sự vật của thế giới. Riêng Phật Giáo không chủ trương như vậy. Đức Phật dạy Ta là người chỉ đường, còn đi hay không là do các ngươi. Khi Đức Phật nhập diệt Ngài có dạy rằng đừng thờ cái thân của Ta, nên sau khi Ngài nhập diệt các đệ tử Ngài không thờ hình tượng của Đức Phật mà thờ tháp đựng xá lợi. Vài trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, những hình tượng tôn trí trong các Tịnh Xá là tháp xá lợi. Thời gian sau vài trăm năm, Phật tử mới tạo lập hình tượng Đức Phật do lòng tôn kính Ngài của Phật tử. Bên Ấn Độ, sau khi chết, người ta thiêu rãi không có tháp, cát bụi trở về với cát bụi. Cái quan trọng ở đây chính là cái tâm. Bát chánh đạo, con đường đưa đến giải thoát khổ đau bắt đầu bằng chánh kiến. Khi có chánh kiến nhìn các sự vật là vô thường, cái đó tạo ra cho con người bước kế tiếp là chánh tư duy.

Chánh tư duy là thấy các sự vật là hư ảo, có đó rồi mất đó, nên tạo ra suy nghĩ không tham, không sân và bất hại. Người có chánh kiến là người có chánh tư duy. Không tham lam, vì tham làm gì khi mình không tồn tại lâu dài để hưởng, rồi tất cả cũng thay đổi nhưng nếu tham thì sẽ tạo ra năng lượng bất thiện gây quả báo trong tương lai. Người có chánh kiến không có sân hận. Sân hận để làm gì vì thân này là chủ thể mà chủ thể này mỗi ngày mỗi chết nên sân hận để làm gì. Trong bài Pháp đầu tiên Đức Phật giảng về Đạo đế hay con đường đưa đến thoát Khổ (Bát chánh đạo), trong đó chánh kiến, chánh tư duy là quan trọng. Khi đã có chánh kiến, chánh tư duy rồi sẽ tạo ra chánh ngữ. Khi biết sự vật là vô thường, không nên tham nữa thì tạo ra lời nói nhẹ nhàng, thương yêu, lời nói không có sân hận. Chánh nghiệp là thân không trộm cắp, sát sinh, tà dâm, nói dối, uống rượu. Chánh mạng là đời sống đúng đắn, nghề nghiệp lương thiện. Vào thời Đức Phật, Ngài có dạy năm điều không nên làm là không được buôn bán vũ khí, không được buôn bán phụ nữ, không được buôn bán thú và thịt, không được buôn bán rượu, chất kích thích và không được buôn bán chất độc.

Chánh tinh tấn là nỗ lực làm điều thiện, và nỗ lực đoạn trừ những điều ác, bất thiện. Tinh tấn tạo ra một tư tưởng, khi nói tới tinh tấn là nói về sự lập đi lập lại. Não của con người có sự tổng quan, khi mình làm việc gì lập đi lập lại nhiều lần thì nó sẽ thành thói quen. Khi đã có thói quen mới mình tiếp tục tinh tấn, sự lập đi lập lại vào một thói quen tốt thì thói quen tốt này sẽ tạo ra một thói quen tốt ở trong vỏ não, ghi nhớ vào trong tiềm thức. Khi nỗ lực làm việc thiện thì có tiếp chánh niệm.

Chánh niệm là an trú tâm vào một đối tượng. Con người khổ vì nghĩ ngợi lung tung. Giống như khi thân ngồi tại Sài Gòn nhưng tâm ở ngoài Huế, như vậy là không có chánh niệm. Chánh niệm là an trú trong hiện tại, an trú ngay công việc mình làm. Chánh niệm thực hành qua nhiều ngày đưa đến nhất tâm. Nhất tâm là không còn dao động, không còn suy nghĩ lung tung. Đức Phật dùng hình ảnh ngọn lửa đèn cày khi gió làm lung lay không gọi là định, nhưng khi đứng im là định. Tâm của con người cần phải được rèn luyện chánh niệm.

Bát Chánh Đạo hay con đường đưa đến Niết Bàn chính là Giới, Định, Tuệ. Trong hai câu kệ này chủ yếu nói đến “ý”. Phân tích ra thì đó là chánh kiến và chánh tư duy. Một khi chúng ta có chánh kiến và chánh tư duy thì việc làm của chúng ta được tốt đẹp. Như vậy chúng ta có thể phân tích ra, Ý là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Chúng ta có thể nghiên cứu thêm nữa, “ý” ở đây được xem như là hình ảnh về trí tuệ hay một quan niệm trung đạo trong Kinh Pháp Hoa ở phẩm số 1. Lần trước quý vị học Kinh Pháp Hoa trong phẩm Tựa hay phẩm số 1, phẩm này nói rằng Đức Phật sau khi giảng vô lượng nghĩa xứ Định thì Ngài ngồi thiền thân tâm bất động và từ bạch hào giữa chặn mày có nguồn hào quang soi rọi về phương đông 84.000 thế giới từ địa ngục A Tỳ đến cõi Phật Hữu Đảnh. Hình ảnh này nói lên điều gì? Hình ảnh này nói về Trí Tuệ. Soi rọi về Phương Đông là về phía mặt trời mọc, khi mặt trời mọc là chúng sinh, vạn vật đều thức dậy để nghe, để thấy. Phóng luồng ánh sáng trí tuệ giữa lông mày phải và lông mày trái. Đây là hình ảnh để nói trí tuệ của Đạo Phật hay là cái “ý” của Đạo Phật đi theo con đường trung đạo, không nghiêng về bên này cũng không nghiên về bên kia. Chúng sanh hay nghiêng. Vì sao vậy? vì thấy cái gì đẹp là nghiêng qua nhìn, thấy cái gì xấu thì nghiêng tránh đi. Nhưng người trí của Phật Giáo thì không như vậy, không phật biệt giàu, nghèo, trắng, đen đều bình đẳng nên ở chính giữa, thuật ngữ Phật giáo gọi là trung đạo, không nghiêng bên này, không nghiên bên kia. Với ánh sáng trí tuệ đó thì có nhìn địa ngục cũng hạnh phúc. Đó có nghĩa là bình đẳng, là người trí. Trí tuệ của đạo Phật có tinh thần như vậy là trung đạo, siêu việt lên những thái cực, những cái đối lập. Còn chúng sinh thì nghiêng về một bên. Khi nghiêng về một bên thì đối lập với bên kia vì vậy nên khổ đau dài dài. Trong Kinh Pháp Hoa phẩm tựa là quan trọng nhất, nói lên cái “ý” có ý nghĩa như vậy. Ở đây phẩm Song Yếu và hai bài kệ đầu tiên cũng nói về cái “ý”, cũng mang tinh thần như vậy.

Câu kệ số 2 nói nếu chúng ta làm thiện tức là không tham, không sân, không si. Khi không tham, không sân, không si là trung đạo vì không nghiêng về bên nào. Hai cách diễn tả khác nhau nhưng đều chung một ý. Hai câu kệ số 1 và 2 trong này tương tự như phẩm tựa trong Kinh Pháp Hoa. Kinh điển nhà Phật không có gì mâu thuẫn, chỉ có điều đôi khi chúng ta như một người học võ, mới học thì muốn phô trương nhưng khi học lên cao thì rất là nhẹ nhàng, không muốn khoe khoang nữa nên có sự phân biệt, tranh luận. Như vậy chúng ta đã đi qua hai câu kệ một và hai, lưu ý rằng cái Ý hay còn gọi cái Tâm rất quan trọng, hãy xử dụng cái Ý đó theo một tinh thần không tham, không sân, không si hay nói cách khác đó là tinh thần trung đạo.

Thích Tâm Đức

(Trích Kinh Pháp Cú giảng giải – phẩm Song Yếu.

Giảng tại: Trung tâm Liễu Quán- San-Jose, California, USA.

Năm 2010)

Nội dung chính
Comments


Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *