Phụ Lục
Trần Tung là con trai Trần Liễu, anh ruột Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn và cũng là anh ruột Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm vợ vua Trần Thánh Tông. Ông đã trực tiếp tham gia cầm quân chống giặc Nguyên Mông trong lần thứ hai 1285 và lần thứ ba 1287-88 còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng. Sau kháng chiến ông ít được nhắc đến và có lẽ ông đã lui về ẩn dật ở ấp Tịnh Bang để theo đuổi sở thích kinh sách Phật giáo. Ông đã từng theo học Thiền sư Tiêu Dao, một nhân vật nổi tiếng cuối đời Lý và là học trò của Thiền sư Tức Lư. Ông là một cư sĩ nhưng với trí tuệ sắc bén, không câu nệ sách vở, bám víu vào những khái niệm có sẵn, biết “hoà quang đồng trần” nhập thế với tinh thần ung dung tự tại. Thượng hoàng Trần Thánh Tông tôn ông làm sư huynh và vua Trần Nhân Tông tôn ông làm thầy. Ông còn được biết là một trong ba cột trụ tư tưởng hình thành thiền phái Trúc Lâm độc đáo của Phật giáo Việt Nam. Về tác phẩm thì những sáng tác của ông được tập hợp trong bộ Thượng sĩ ngữ lục.[1]
Để góp phần tìm hiểu về tư tưởng Phật học của Tuệ-trung Thượng-sĩ ta thử phân tích những thơ văn của ông ta còn để lại.
KIẾN GIẢI
Hán-Nôm Việt:
Kiến giải trình kiến giải,
Tự niết mục tác quái.
Niết mục tác quái liễu,
Minh minh thường tự tại.[2]
Dịch nghĩa:
Khi giải bày những điều trông thấy, người ta tự mình ấn tay vào mắt làm cho mắt nhìn thành kỳ quái. Sau khi ấn tay vào mắt làm chuyện kỳ quái xong, sự sáng suốt khởi lên và làm người ta thường an nhiên tự tại.
Bình luận:
Qua bốn câu kệ này, Tuệ-trung Thượng-sĩ cho biết cái thấy biết bình thường của con người là cái thấy biết kỳ quái mà trong kinh Phật diễn tả như hoa đốm giữa hư không, chúng không thật có. Trong kinh Pháp Hoa gọi kiến giải này là Tri kiến phật, cái thấy biết thế giới của một vị chứng ngộ, sáng suốt; được cụ thể hoá là Thập như thị – Các pháp như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị qủa, như thị báo, trước sau rốt ráo như thị[3]. Thế giới được biểu hiện qua tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo và tất cả. Như thị (P., S. tathata) là như thật, như chính nó as it is. Người trí Phật giáo nhìn mười biểu hiện của thế giới này với cặp mắt như thị, như chính nó; nghĩa là buông xả cái thế giới ảo mà thế gian lầm tưởng và nắm giữ chúng. Do vậy, hành giả Phật giáo buông xả chúng mà không nắm giữ và tâm trí trở nên nhẹ nhàng sáng suốt không bị chướng ngại và được gọi là thần thông (lậu tận thông).
Tuệ-trung Thượng-sĩ xem tâm vương không tướng không hình là chân diện mục và muốn biết nó thì thức phải dừng lại sự phân biệt!
TÂM VƯƠNG
Hán-Nôm Việt:
Tâm vương vô tướng diệc vô hình,
Nhãn tự ly châu dã bất minh,
Dục thức giá ban chân diện mục,
Ha ha nhật ngọ đả canh ba.[4]
Dịch nghĩa:
Vua tâm không tướng cũng không hình,
Dù mắt sáng như hạt châu dưới cằm con rồng cũng không thấy được.
Muốn biết được “khuôn mặt thực” của nó,
A ha! Giữa trưa cứ ngủ thẳng tới canh ba.
Bình luận:
Tâm là một dạng năng lượng đặc biệt chi phối mọi hoạt động thân, khẩu, ý của con người. Tâm ngang qua 6 giác quan – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý – mà thi thiết; và ngược lại, ngang qua 6 giác quan tiếp xúc với 6 đối tượng của chúng để tạo ra hoặc tác động đến tâm. Theo quan điểm Phật giáo thì có tâm vương và tâm sở. Có 8 loại tâm vương, đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, ý thức, mạt na thức (chấp ngã, căn của ý thức) và A lại da thức. Theo wikipedia.org thì Tâm sở (C. 心所, S., P. cetasika), hoặc Tâm sở hữu pháp (S. caittadharma), là những yếu tố phụ thuộc vào Tâm, gắn liền với một nhận thức (S. vijñāna) – nhận thức đây cũng được gọi là Tâm vương (S. cittarāja), là hoạt động tâm thức chủ yếu – đang sinh khởi và khởi lên đồng thời với nhận thức đó[5].
Tâm không hình tướng nhưng nó có thật. Khi tâm bị vô minh chi phối thì tạo ra những điều ác bất thiện. Ngược lại, khi tâm hết vô minh, sáng suốt (trí tuệ) thì con người an vui, hạnh phúc ngay trong cuộc đời khổ đau này. Vì vậy, “khuôn mặt thực” của tâm chỉ cho cái tâm giác ngộ, trực nhận chân lý, vượt lên sự phân biệt, đối đãi như ngày – đêm, có lý – phi lý ở thế gian. Do vậy, câu cuối thể hiện một cảm xúc A ha! sung sướng của hành giả giác ngộ, đã vượt lên sự suy nghĩ phân biệt thường tình của thế nhân Giữa trưa cứ ngủ, lẽ ra ban đêm mới ngủ chứ!
TỰ TẠI
Hán-Nôm Việt:
Đằng thử vô đoan tiệm tiệm xâm,
Quy lai chung lão ký sơn lâm,
Sài môn mao ốc cư tiêu sái,
Vô thị vô phi tự tại tâm.[6]
Dịch nghĩa:
Dây leo và loài chuột không dưng dần dần lấn tới,
Trở về gửi thân nơi núi rừng đến trọn tuổi già.
Cửa liếp nhà tranh, ăn ở thảnh thơi,
Không “thị” không “phi”, lòng ung dung tự tại.
Bình luận:
Dây leo và loài chuột có liên quan đến một câu chuyện thiền, câu chuyện số 18 trong 101 câu chuyện thiền trong tập sách Góp Nhặt Cát Đá của Thiền sư J. Muju:
- Ngụ Ngôn
Trong Kinh, Ðức Phật có dạy một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Một người đi qua một cánh đồng và gặp một con hổ. Anh ta bỏ chạy, con hổ đuổi theo. Ðến một bờ vực sâu, anh chụp được một sợi dây leo và đu lững lơ gần bờ vực. Bên trên con hổ đang cúi xuống đánh hơi. Run sợ cuống cuồng, anh nhìn xuống đáy vực sâu lại thấy một con hổ khác đang nhe răng nhìn lên.
Bỗng lại xuất hiện hai con chuột, một trắng một đen đang gậm nhấm sợi dây leo. Chợt anh thấy một quả dâu chín mọng bên cạnh. Một tay nắm chặt dây, tay kia nhặt quả dâu bỏ vào miệng. Chao ôi sao nó ngọt thế![7]
Thiền sư J. Muju này sống ở Nhật Bản vào thế kỷ 13 cùng thời với Tuệ-trung Thượng-sĩ. Ý nghĩa của câu chuyện thiền số 18 này là trong cái thế giới khổ đau nguy hiểm này vẫn có giây phút sung sướng hạnh phúc thoát khỏi những lo lắng mọi nguy nan. Tuệ-trung Thượng-sĩ mở đầu bài kệ như muốn giải thích rõ ràng hơn theo nhân sinh quan của mình. Vâng, thời gian trôi qua ai rồi cũng già yếu và đây là một quy luật khách quan của vũ trụ không chịu sự chi phối bởi ý chí chủ quan của con người. Tuệ-trung Thượng-sĩ đã tuỳ thuận, không chống đối quy luật này và đã chọn sống cuộc đời giãn dị nơi núi rừng, xa lánh những thị – phi, đúng – sai, những quan niệm sai trái dẫn đến phiền não, khổ đau của đa số chúng sinh mê lầm. Khi tâm không còn bị chi phối bởi những đối đãi (non-duality) con người trở nên ung dung, tự tại.
TRÌ GIỚI KIÊM NHẪN NHỤC
Hán-Nôm Việt:
Trì giới kiêm nhẫn nhục,
Chiêu tội bất chiêu phúc,
Dục tri vô tội phúc,
Phi trì giới nhẫn nhục.[8]
Dịch nghĩa:
Trì giới và nhẫn nhục,
Chuốc tội chẳng chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Đừng trì giới nhẫn nhục.
Bình luận:
Lộ trình tu tập giải thoát trong Phật giáo được biết tuần tự là: Giới – Định – Tuệ – Giải thoát – Giải thoát tri kiến. Tâm con người thường bị điên đảo, vọng tưởng như mắt bịnh thấy hoa đốm giữa hư không. Do vậy, trước tiên phải giữ giới như không trộm cắp, nhẫn nhục để hạn chế những phiền não rắc rối giúp thuận lợi cho bước tu tập tiếp theo là thiền định… Tuy nhiên, sự tu tập tuần tự này phù hợp cho người mới bắt đầu tu, căn cơ còn thấp cần thiết phải tiệm tu. Nhưng với người thượng căn, trí tuệ thì nhìn vấn đề có khác. Họ trực nhận thực tại, không còn bị chi phối bởi những lớp sương mờ của ảo giác như ánh trăng trên mặt hồ… Với họ, trộm cắp là khái niệm, nhẫn nhục là khái niệm (concept), những ý tưởng trừu tượng xuất hiện trong tâm trí; chúng xuất hiện như những áng mây mờ che tối ánh trăng. Đây không phải đứng trên phương diện luân lý, đạo đức mà đứng trên phương diện giải thoát khỏi các tà kiến. Quan điểm này của Tuệ Trung Thượng Sĩ trùng hợp với quan điểm của đức Phật khi ngài ít đặt nặng về giới luật mà đặt nặng về trí tuệ:
Này các Tỷ kheo, đấy là những vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật mà kẻ phàm phu dùng để tán thán đức Như lai.[9]
Những pháp ấy, này các Tỷ kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch mịch, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt. Những pháp ấy, đức Như lai đã chứng tri, giác ngộ và truyền thuyết; và chính những pháp ấy, những ai như thật chân chánh tán thán đức Như lai mới nói đến.[10]
CÁI GỐC CỦA TÔN CHỈ THIỀN
Hán-Nôm Việt:
Một hôm được Trần Nhân Tông hỏi về cái gốc của tôn chỉ Thiền, Thượng Sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được.”[11]
Bình luận:
Thiền là một pháp môn rất đặc biệt của Phật giáo. Phật Thích-ca ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề bảy tuần lễ mà chứng ngộ. Trong thời gian đi hoằng pháp ngài ngay trước khi kết thúc bài pháp thường khuyên các đệ tử hành thiền. Năm tám mươi tuổi ngay trước khi lâm chung, ngài nói với thị giả A-nan hầu bên cạnh, người nào mà nhiệt tâm tinh cần chánh niệm tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu ở đời, sống quán thân trên thân, thọ trên thọ, tâm trên tâm, pháp trên pháp (đây là Thiền Tứ niệm xứ) thì đó là những người tối thượng trong hàng đệ tử của ngài trong hiện tại cũng như trong tương lai! Chính nhờ thiền định mà hành giả có chánh trí và thánh giải thoát. Thiền đây chính là hướng nội, lấy tâm đối trị tâm để trực nhận bản tâm thanh tịnh của chính mình, “khuôn mặt thật” của bản tâm mình, và đây cũng chính là cái gốc của tôn chỉ Thiền.
Câu nói của Tuệ Trung“Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được” cũng giống với câu nói của đức Phật “Trong cái thân dài độ mấy tất này, với những tưởng, những tư duy của nó, ta tuyên bố về thế giới, thế giới tập khởi, thế giới đoạn diệt, về con đường đưa đến thế giới đoạn diệt…Bậc đạt được an tịnh, biết tận cùng thế giới, không mong cầu đời này, đời sau.”[12]
KHUYẾN THẾ TIẾN ĐẠO[13]
Hán-Nôm Việt:
Tứ tự tuần hoàn xuân phục thâu (thu),
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu.
Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,
Ái hà xuất một đẳng phù âu.
Phung trường diệc bất mô lai tị,
Vô hạn lương duyên chỉ má hưu.
Dịch nghĩa:
Bốn mùa tuần hoàn, hết xuân lại thu
Nhanh sầm sập, chả mấy chốc đã già mái đầu con trẻ.
Chẳng chịu ngoái nhìn vinh hoa như một giấc mộng,
Năm tháng luống mang vào lòng muôn hộc sầu.
Nẻo “khổ” cứ luân hồi như trục bánh xe quay mãi,
Sông “ái” chìm nổi như bọt nước bập bềnh.
Nếu cứ buông trôi trong mọi thú vui mà không tìm ra điểm bắt đầu,
Thì duyên lành vô hạn chỉ đến thế mà thôi.
Bình luận:
Đây là bài thơ mà ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ khuyên mọi người tu tập Phật giáo. Ý thơ cho thấy, thời gian trôi qua nhanh quá, mọi thứ thay đổi chóng mặt, mới đó mà đã già yếu rồi, đức Phật gọi là vô thường. Phú quý vinhJ hoa, những thứ mà mọi người khi còn trẻ đua tranh giành giật, nay còn sức đâu nữa mà để ý, chúng tan biến như một giấc mộng. Chờ đợi trước mắt là cái chết đang cận kề làm sao mà lòng không sầu muộn được. Tuệ Trung đã cảnh báo cái “khổ” của sống chết đó nó không dừng lại mà sẽ tiếp tục, trôi lăn như bánh xe quay. Nguyên nhân là do dòng sông ái dục mãnh liệt kích thích con người lao vào những thú vui trần thế như những con thiêu thân. Do vậy, nếu không tỉnh ngộ mà dừng lại, thấy được ái dục là cái nhân tạo ra chuỗi khổ đau không điểm dừng thì sẽ lỡ mất cái thiện duyên mang lại nguồn hạnh phúc vô hạn.
Thích Tâm Đức
[1] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, 1989, tr. 223-24.
[2] Sđd., tr. 225.
[3] Thich Tam Duc (2012), Ekayana Philosophy of the Saddharmapundarika Sutra, Delhi: Originals Publisher, tr. 121-22.
[4] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, Sđd., tr. 237.
[5] https://vi.wikipedia.org/wiki/Tâm. Tham khảo ngày 20/9/2021
[6] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, Sđd., tr 241.
[7] https://sachtruyen.net/doc-sach/gop-nhat-cat-da.80c08.0002. Tham khảo ngày 20/9/2021
[8] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, 1989, tr. 289-90.
[9] Trường Bộ Kinh, Thích Minh Châu dịch (1973), Sài Gòn: Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh Xuất Bản, tr. 12
[10] Sđd., tr. 17.
[11] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, 1989, tr.546.
[12] Kinh Bộ Tăng Chi, Tập I, Thích Minh Châu dịch (1988), HCM: Trường Cao cấp Phật học Việt Nam Cơ sở 2, tr. 407-8
[13] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, 1989, tr. 264.