Phụ Lục
Duy-ma-cật (Vimalakīrti) là một thái tử bộ tộc Licchavi, giàu có, sống cuộc đời cư sĩ nhưng với hành trạng của một vị bồ-tát, trí tuệ siêu việt. Liên hệ đến vị cư sĩ đặc biệt này có ba bản kinh trong Hán tạng và một trong Tây tạng tạng.
Ba bản kinh chữ Hán liên hệ còn được lưu lại trong Đại Chính Tân Tu Đại tạng kinh:
- Phật thuyết Duy-ma-cật kinh (C. 佛說維摩詰經), Taishō No. 474, 2 quyển, Chi Khiêm(C. 支謙) dịch đầu thế kỉ thứ 3sau CN.
- Duy-ma-cật sở thuyết kinh (C . 維摩詰所說經), Taishō No. 475, 3 quyển, Cưu-ma-la-thập(C. 鳩摩羅什, S. kumārajīva) dịch đầu thế kỉ thứ 5 sau CN.
- Thuyết Vô Cấu Xưng kinh (C. 說無垢稱經), Taishō No. 476, 6 quyển, Huyền Trang(C. 玄奘) dịch giữa thế kỉ thứ 7sau CN.
Bản Tạng văn mang tựa T. འཕགས་པ་དྲི་མ་མེད་པར་གྲགས་པས་བསྟན་པ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། ´phags pa dri ma med par grags pas bstan pa zhes bya ba theg pa chen po`i mdo. Chos nyid tshul khrims (S. dharmatāśīla) dịch cuối thế kỷ 8. Bảng Tạng văn này được xem là giống bản gốc Phạn nhiều nhất. Bản gốc Phạn và bản dịch Tạng có 12 chương, trong khi ba bản Hán có 14 chương. Tên các chương của bản Phạn và Tạng gần như giống nhau hoàn toàn.
Ngoài các bản dịch Hán, Tạng nói trên còn nhiều bản dịch sang tiếng Anh[1], Pháp, Đức quan trọng khác; được dịch từ các bản dịch Hán, Tạng nêu trên. Đáng kể nhất phải nói là bản dịch tiếng Pháp của Étienne Lamotte: F. L’Enseignement de Vimalakīrti (S. Vimalakīrtinirdeśa), Louvain, 1962.
Trong các bản dịch tiếng Việt thì bản của Thượng toạ Thích Tuệ Sỹ chỉnh hơn hết.[2]
Chúng ta cần lưu ý là Ba bản kinh chữ Hán trên dược phiên dịch sau thế kỷ 2 TL, là thời gian xuất hiện của ngài Long Thọ (Nagarjuna), một luận sư nổi tiếng về khái niệm tánh không “sunyata” và được biết là người hệ thống lại nhiều kinh điển Phật giáo Đại thừa.
The Holy Teaching of Vimalakīrti (Thánh giáo của Duy-ma-cật)
Bản Tạng văn được dịch qua tiếng Anh “The Holy Teaching of Vimalakīrti” (Thánh giáo của Duy-ma-cật) gồm có 12 chương như sau:
Chương 1: Purification of the Buddha-Field[3] (Thanh tịnh hoá Phật độ). Đức Phật giảng trong một hội chúng có nhiều vị thanh văn, bồ tát và chư thiên tham dự. Trong chương này đức Phật giải thích thế nào là cảnh giới Phật và tâm thanh tịnh của một vị bồ-tát.
Chương 2: Inconceivable Skill in Liberative Technique[4] (Phương tiện thiện xảo trong thuật giải thoát). Cư sĩ Duy-ma-cật bị bịnh nên không đến dự pháp hội được. Trong thời gian này nhiều người đến thăm ông và ông đã giải thích những khuyết điểm của thân người, đặc điểm thân Phật và khuyên mọi người nên tu tập để có được thân Phật.
Chương 3 (3 và 4[5]): The Disciples’Reluctance to Visit Vimalakīrti[6] (Sự miễn cưỡng của những vị thanh-văn đến viếng Duy-ma-cật). Phật phái 10 vị thanh-văn nổi tiếng đến thăm cư sĩ này nhưng tất cả đều từ chối vì đã thua tài biện luận của ông ta.
Chương 4 (5): The Reluctance of the Bodhisattvas[7] (Sự miễn cưỡng của những bồ-tát). Phật phái 4 vị bồ-tát và đại hùng lực đến thăm cư sĩ này nhưng tất cả đều từ chối vì đã thua tài biện luận của ông ta.
Chương 5 (6): The Consolation of the Invalid[8] (Sự an ủi người bịnh). Một căn phòng nhỏ bé nhưng có thể dung nạp vô số người viếng thăm bịnh nhân Duy-ma-cật. Đề cập về cuộc đối thoại giữa hai nhân vật nổi tiếng về trí tuệ, bồ-tát Văn Thù và cư sĩ Duy-ma-cật, về các chủ đề quan trọng, đó là tánh không (śūnyatā), bịnh tình của cư sĩ và lĩnh vực hoạt động của một vị bồ-tát.
Chương 6 (7): The Inconceivable Liberation[9] (Sự giải thoát bất khả tư nghị). Duy-ma-cật giải thích cho Xá-lợi-phất về ý nghĩa của sự phát tâm cầu pháp và sự giải thoát bất khả tư nghị của chư vị Như-lai và bồ-tát. Rồi đến cuộc đối thoại giữa Duy-ma-cật và Văn-thù về những vấn đề quan trọng, chẳng hạn sự giải thoát không thể nghĩ bàn (inconceivable liberation).
Chương 7 (8); The Goddess[10] (Thiên nữ). Cuộc đối thoại giữa Duy-ma-cật và Xá-lợi-phất về tình yêu vô ngã vị tha, bình đẳng (mahamaitri) dưới nhiều góc cạnh. Rồi một thiên nữ xuất hiện dùng tài hùng biện với Xá-lợi-phất nhằm nhấn mạnh sự ưu việt của Đại thừa. Do bị thách thức, thiên nữ này thi triển thần thông, làm hoán chuyển giữa thân mình và thân của Xá-lợi-phất để cho thấy sự bình đẳng, vô phân biệt về giới tính. Sau cùng, Duy-ma-cật nói rằng, thiên nữ này đã phục vụ 92 triệu tỉ Phật nay có trí tuệ siêu việt, đạt sự bất sinh, chứng sự bất thối và có thể sống bất cứ nơi nào theo hạnh nguyện để hoá độ chúng sinh.
Chương 8 (9): The Family of the Tathagatas (Gia đình Như-lai). Duy-ma-cật giải thích cho Văn-thù biết, cho dù nếu một vị bồ-tát làm theo tà đạo nhưng mà tâm không như vậy tức là hướng theo Phật đạo. Cư sĩ còn ứng đáp với vị bồ-tát Hiện-nhất-thiết-sắc-thân (S. sarvarūpasaṃdarśana) rằng, đối với những bồ-tát thật sự thì gia đình của họ là những đức tính cao quý như trí tuệ siêu việt, kỹ năng giải thoát…
Chương 9 (10): The Dharma-Door of Nonduality[11] (Pháp môn Bất nhị). Theo yêu cầu của Duy-ma-cật, ba mươi mốt vị bồ-tát và Văn-thù trình bày quan điểm của mình về pháp môn bất nhị. Nhưng khi được yêu cầu làm sáng tỏ “Lối vào bất nhị” thì Duy-ma-cật chỉ im lặng, không nói gì cả!
Chương 10 (11): The Feast Brought by the Emanated Incarnation[12] (Bữa tiệc được mang về bởi vị bồ-tát hoá thân). Biết được suy nghĩ của Xá-lợi-phất về bữa ăn trưa cho nhiều vị bồ-tát và sau khi tự mình dùng thần thông phái một bồ-tát hoá thân bay đến khất thực và về lại cõi ta bà cùng các vị bồ-tát từ cõi Nhất-thiết-diệu-hương, Duy-ma-cật đã phân tích về cách truyền Pháp của Phật Tối-thượng-hương-đài (S. sarvagandhasugandha) – không phải bằng âm thanh ngôn ngữ mà bằng hương thơm, và của Phật Thích-ca bằng những bài kinh phù hợp cho những người ở cõi ta bà tâm tánh khác xa với cõi Nhất-thiết-diệu-hương.
Chương 11 (12): Lesson of the Destructible and the Indestructible (Bài học hữu vi và vô vi).
Thể theo yêu cầu của các vị bồ-tát từ Phật độ Nhất-thiết-diệu-hương (S. sarvagandhasugandha), Phật Thích-ca dạy sự giải thoát của bồ-tát là không đoạn diệt pháp hữu vi ví như không đánh mất đại bi và không an trú vào pháp vô vi ví như thực hành tánh không nhưng không nghĩ về tánh không. Các vị bồ-tát nghe bài thuyết pháp xong hoan hỉ trở về Phật độ của họ.
Chương 12 (13 và 14): Vision of the Universe Abhirati and the Tathagata Aksobhya[13] (Nhìn cảnh giới Phật Abhirati và Như-lai Aksobhya). Phật hỏi Duy-ma-cật quán thân Như-lai như thế nào? Cư sĩ này nói quán thân Như-lai như thể không hiện hữu, Như-lai là tánh không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Phật tán thán Đế-thích bảo trì kinh và những ai cúng dường pháp. Sau đó, Phật thọ ký chánh đẳng chánh giác cho bồ-tát Di-lặc và yêu cầu A-nan thọ trì và truyền bá rộng rãi kinh này.
Những ý tưởng quan trọng trong thánh giáo của Duy-ma-cật:
Qua 12 chương của bản kinh “Thánh giáo của Duy-ma-cật” ta thấy truyền tải nhiều ý tưởng quan trọng:
- Chương 1: Một vị bồ-tát với tâm thanh tịnh nhập thế và chuyển hoá thế gian đau khổ thành cảnh giới an vui như ở các cõi Phật.
- Chương 2: Duy-ma-cật phương tiện tạo ra thân bị bịnh để nói lên cái tâm chấp ngã, nguyên nhân mọi khổ đau của con người thế gian ngược lại với thân Phật vô ngã.
- Chương 3: Các vị thanh-văn mặc dầu cũng tu tập chứng đạt quả vị a-la-hán nhưng chưa phải rốt ráo với quả vị Phật.
- Chương 4: Các vị bồ-tát mặc dầu có tiến bộ hơn thanh-văn là ngoài tự độ ra còng độ tha nhưng đang trên đường hướng đến quả vị Phật.
- Chương 5: Đề cập đến một khái niệm cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, đó là tánh không (sunyata) vì vậy mà Một căn phòng nhỏ bé nhưng có thể dung nạp vô số người viếng thăm bịnh nhân Duy-ma-cật.
- Chương 6: Sự giải thoát của Phật giáo Đại thừa vượt ra ngoài giới hạn hiểu biết của thế gian.
- Chương 7: Phá chấp, phân biệt đối xử về giới tính; người nữ vẫn có thể thành tựu mục tiêu giải thoát và độ sanh như nam giới.
- Chương 8: Bàn về sự quan trọng của tâm ý bao gồm những thuộc tính cao quý.
- Chương 9: Lối vào đạo hay chân lý đó là bất nhị (nonduality) hay trung đạo là những khái niệm cốt lõi của Phật giáo nói chung.
- Chương 10: Thức ăn tế nhị của tinh thần, nuôi dưỡng sự sống. Trong kinh tạng Pali đức Phật nói có bốn loại thức ăn: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Cho thấy tầm quan trọng của thức ăn tinh thần.
- Chương 11: Hữu vi và vô vi hay nói một cách khác, thế gian và xuất thế gian. Hai phạm trù này hỗ tương nhau và không thể tách ra được ví như hoa sen gần bùn mà không hôi tanh mùi bùn.
- Chương 12: Nhắc lại tầm quan trọng cốt lõi trong nhận thức, đó quán vô ngã! Và sự hoan hỉ, thoả mãn của tất cả mọi người sau khi nghe kinh này cũng như sự mong muốn của đức Phật là kinh này nên được lưu lại lâu dài cho hậu thế.
Thích Tâm Đức
[1] The Holy Teaching of Vimalakīrti, Robert A. F. Thurman dịch từ bản Tây Tạng (1991), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers.
[2] https://vi.wikipedia.org/wiki/Duy-ma-cật_sở_thuyết_kinh. Tham khảo ngày 18/09/2021
[3] The Holy Teaching of Vimalakīrti, Robert A. F. Thurman dịch từ bản Tây Tạng (1991), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, tr. 10
[4] The Holy Teaching of Vimalakīrti, sđd., tr. 20
[5] Những chương tương đương bên bản Hán
[6] The Holy Teaching of Vimalakīrti, sđd., tr. 24
[7] Sđd., tr. 34
[8] Sđd., tr. 42
[9] The Holy Teaching of Vimalakīrti, Robert A. F. Thurman dịch từ bản Tây Tạng (1991), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, tr. 50
[10] Sđd., tr. 56
[11] Sđd., tr. 73
[12] Sđd., tr. 84
[13] The Holy Teaching of Vimalakīrti, Robert A. F. Thurman dịch từ bản Tây Tạng (1991), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, tr. 91