Phụ Lục
- PGVN thời Trần Nhân Tông, một ý thức hệ PG chủ lực
- Vai trò chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội thời Trần Nhân Tông.
- Chiến lược giữ nước lâu dài của Trần Nhân Tông
- Kết luận
I. PGVN THỜI TRẦN NHÂN TÔNG, MỘT Ý THỨC HỆ PHẬT GÍAO CHỦ LỰC
Cuối năm 1225, Hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, Trần Thái Tông, người mở đầu cho triều đại nhà Trần trị vì cho đến năm 1400. Dựa vào những thành tựu đáng kể của triều nhà Lý, triều nhà Trần tiếp tục phát triển hạ tầng cơ sở cũng như thượng tầng kiến trúc trong đó PG tiếp tục đóng vai trò đặc biệt.
- Phật giáo, yếu tố quyết định của văn hoá triều nhà Trần
1. Vai trò Khổng giáo:
Hệ thống thi cử trước đó đã đóng góp cho văn hoá dân tộc và thường dựa vào chính trị. Dưới những triều đại Lý và Trần ảnh hưởng to lớn của tam giáo – Phật, Nho, Lão – lên đời sống xã hội đã được biểu hiện qua thi cử. Chẳng hạn, những kỳ thi tam giáo vào năm 1195 dưới triều nhà Lý hoặc vào những năm 1227, 1247 dưới triều nhà Trần.
Vào năm 1070, Vua Lý Thánh Tông cho xây dựng văn miếu để thờ Khổng Tử và những đệ tử, và Thái tử đã học ở đây. Có nghĩa, nhà vua đã thừa nhận rằng, Khổng Tử hay mô hình Khổng giáo Phong kiến Trung quốc thích hợp cho nhà nước phong kiến mà nhà vua đang hết sức xây dựng và củng cố. Sau đó, các vua triều nhà Trần đã có cùng quan điểm. Tuy nhiên, Khổng giáo đã phát triển chậm ở Việt Nam. Một trường đại học PG được thành lập lần đầu tiên vào năm 1070, nhưng mãi đến năm 1235 Tứ Thư và Ngũ Kinh mới được dạy ở đó. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng của PG và Lão giáo vẫn đã cắm rễ sâu trong đời sống tinh thần của người Việt.
“Cả PG và Lão giáo được kính trọng dưới triều đại nhà Lý và Trần. Do vậy, suốt trong thời kỳ này, những người giỏi cả hai tôn giáo này, hoặc chính thống hoặc dị giáo, được kính trọng bình đẳng, và thật không dễ để đậu những kỳ thi tam giáo cho những thí sinh không có kiến thức rộng.”[1]
Và mãi cho đến cuối triều đại nhà Trần Khổng giáo mới đạt được sự thống trị trong sự giáo dục và những kỳ thi phong kiến. Điều này đã tạo ra một nền tảng vững chắc cho những triều đại phong kiến kế tiếp. Vào năm 1396, nhà vua đã ban hành sắc chiếu mô hình thi Cử nhân:
“Hệ thống thi cử vào cuối triều Trần, có đủ bốn loại thi viết (mô phỏng theo nhà Nguyên ở Trung Quốc), mãi cho đến nay mới tiếp tục. Nhằm tuyển chọn nhân tài, không có gì tốt hơn mô hình này. Trong số những người đậu vào cuối triều nhà Trần, Nguyễn Trãi là người giỏi nhất và đã giúp triều Lê xây dựng đất nước.”[2]
2. Hoàng gia ủng hộ Phật giáo
Ở Việt Nam, vào thời kỳ đầu độc lập, hầu hết nhà vua đều giỏi về quân sự nhưng chưa có kinh nghiệm về nghệ thuật điều hành đất nước. Vì lẻ đó, những vua triều nhà Đinh và Tiền Lê luôn sử dụng kiến thức của những tăng sĩ PG trong nghệ thuật lãnh đạo đất nước. Giống như phần đông dân chúng vào thời bấy giờ, các nhà vua tin rằng những tăng sĩ PG và Lão giáo có thể tiên đoán điềm lành hay dữ trong tương lai và có thể cầu nguyện phước lành cho họ. Các vua đầu triều nhà Lý cũng đã yêu cầu những Thiền sư giúp đỡ họ trong những lĩnh vực chính trị và ngoại giao. Nhưng vào triều nhà Trần thì tình trạng đã khác. Những vua Trần như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông đều giỏi cả PG và Khổng giáo. Ba nhà vua này đã ủng hộ sự kết hợp PG và Khổng giáo, đã sử dụng Khổng giáo vào việc quản trị đất nước và PG vào việc giải thoát tâm linh và thống nhất chính trị.
- Trần Thái Tông (1218-1277): Vua đầu tiên triều đại nhà Trần, được sắp xếp lên ngôi bởi người cậu là Nhiếp chính, Trần Thủ Độ, đã thành công trong việc ngày càng làm cho xã hội bình ổn và thịnh vượng sau thời kỳ rối loạn vào cuối triều nhà Lý. Nhà vua đã đóng góp cho hệ thống thi cử giáo dục và là người đầu tiên đã đánh bại quân Mông Cổ vào năm 1257. Nhà vua nói: “Vì ban ngày bận rộn, khuya ta tranh thủ đọc sách, nghiên cứu cả Khổng lẫn Phật giáo.”[3]
- Trần Thánh Tông (1240-1290): Ngài là con cả của vua Trần Thái Tông. Ngài biết cách sử dụng nhân tài và tập trung vào chính sự. Cùng với con, Trần Nhân Tông, ngài trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến quân Mông Cổ lần thứ hai và thứ ba đưa đến thành công vào năm 1285 và 1288. Về sau, ngài ngự ở Bắc Cung, xuất gia, tập trung vào việc nghiên cứu và viết lách kinh sách Phật giáo.
- Trần Nhân Tông (1258-1308): Ngài là con cả của vua Trần Thánh Tông, một vị vua yêu nước và anh hùng. Ngài nổi tiếng về lòng khoan dung độ lượng, chủ trương một chính sách đoàn kết, khoan thư sức dân, tuyển mộ nhân tài cho bộ máy nhà nước ngang qua thi cử, và mở rộng tinh thần dân chủ. Trong thời trị vì có hai hội nghị nổi tiếng, Bình Than vào năm 1282 giữa vua và quan quân và Diên Hồng vào năm 1284 giữa vua và các bô lão khắp cả nước. Kết quả là 50 vạn quân Mông Cổ bị đánh bại vào hai năm 1285 và 1288. Ngài cũng là một nhà thơ và nhà sáng lập Thiền phái Trúc Lâm đầu tiên mang sắc thái Việt Nam, là thiền phái thống nhất các thiền phái đương thời, đáp ứng nhu cầu tôn giáo của dân chúng và đã đóng góp vào việc xây dựng một nước Đại Việt độc lập, văn minh và hùng mạnh trước những thế lực từ bên ngoài. Chính dưới triều đại Trần Nhân Tông mà Phật giáo Việt Nam đạt đến tột đỉnh. Vào năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con và một lòng theo Phật giáo. Năm 1298, ngài xuất gia, du hành khắp nước và đến nước Champa.
- Sự thống nhất Phật giáo:
– Khuynh hướng thống nhất các thiền phái:
Vào đầu thế kỷ thứ 13 ba thiền phái – Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường dần dần thống nhất lại với nhau. Thảo Đường không có cơ sở trong quần chúng cũng như không có truyền thống tu viện riêng, nhưng nó có ảnh hưởng về mặt học thuật đối với hai thiền phái kia – Sách Tuyết Đậu Ngữ Lục của Thảo Đường được dùng bởi hai thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông. Thiền sư Thường Chiếu (mất 1203) của Vô Ngôn Thông di chuyển đến và làm Trụ trì chùa Lục Tổ. Lục Tổ là ngôi chùa cổ của Tì Ni Đa Lưu Chi được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 8. Điều này chứng tỏ rằng hai thiền phái này hầu như hoà trộn lẫn nhau. Thường Chiếu có thể được xem là vị tăng đầu tiên sáp nhập ba thiền phái này dưới triều nhà Lý và mở đường cho sự hình thành một thiền phái Trúc Lâm duy nhất.
Ngoài ra, dưới triều vua Trần Thái Tông có một thiền sư người Trung Quốc tên Thiên Phong du hành đến Đại Việt và được mời tham dự những buổi thiền đàm do nhà vua tổ chức. Và tư tưởng của Thiên Phong đã có ảnh hưởng đến những thiền sư Việt Nam đương thời như Đại Đăng, Trần Thái Tông…
Trước đó, triều nhà Lý đã đặt nền tảng cho một Đại Việt thống nhất với những chiến thắng vang dội – bình Chiêm phạt Tống[4] – và đã bình ổn lãnh thổ. Sau khi có được sự độc lập về mặt chính trị, kinh tế và quân sự Đại Việt phải theo đuổi một nền độc lập của riêng mình về mặt ý thức hệ. Vua Lý Thần Tông đã thấy điều này. Nhà vua muốn xây dựng một ý thức hệ dựa vào thiền phái Thảo Đường, và chùa Một Cột là một vết tích tiêu biểu còn lại. Tuy nhiên, nỗ lực của vua triều Lý đã không thành công hoàn toàn.
Triều nhà Trần tiếp tục giữ vững nền độc lập dân tộc. Triều đại này cũng ý thức được sự cần thiết một ý thức hệ có thể thống nhất quần chúng và giúp bảo vệ tổ quốc với những mục đích sau:
– Thoát khỏi ảnh hưởng của ý thức hệ ngoại bang,
– Thống nhất quyền lực vào chính quyền trung ương,
- Duy trì trật tự xã hội và ngai vàng.
Về ý thức hệ tôn giáo, trong tiến trình đấu tranh và đồng hoá giữa những tôn giáo khác biệt như là Phật, Khổng, Lão và những tín ngưỡng bản địa từ những thế kỷ đầu Công nguyên đến triều Lý, Phật giáo đã đóng vai trò thống trị. Trong Phật giáo Việt Nam, ngoài những thiền phái còn có những tông phái khác như Tịnh độ tông, Mật tông. Tuy nhiên, với tinh thần vô chấp, Thiền tông có thể điều hoà những tư tưởng hay tín ngưỡng khác biệt. Triều Trần đã chọn Thiền tông làm ý thức hệ lãnh đạo; và, những Thiền tông đương thời chịu ảnh hưởng Trung Quốc đã được ứng dụng thích nghi với những mục đích trên.
Trần Thái Tông định đảm nhận sứ mệnh xây dựng một ý thức hệ Phật giáo thống nhất nhưng không thành công. Năm 1236, sau khi ý thức trách nhiệm truyền bá đạo Phật, nhà vua lén trốn đến núi Yên Tử tìm cầu chân lý. Quốc sư Phù Vân ở núi đó nói rằng:
“Trong núi không có Phật; Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu, đó chính là chân Phật. Nay nếu Bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, không cần tìm kiếm bên ngoài.”[5]
Nhưng Trần Thủ Độ cùng với đoàn tuỳ tùng buộc nhà vua phải trở về lại kinh thành Thăng Long. Quốc sư khuyên vua:
“Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình; lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay muôn dân đã muốn đón bệ hạ về thì bệ hạ không về sao được! Duy có việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng chút xao lãng mà thôi.”[6]
Nhà vua nói:
“Vì thế, trẫm cùng mọi người trở về Kinh, miễn cưỡng lên ngôi. Trong khoảng hơn chục năm, mỗi khi được rảnh việc trẫm lại hội họp các vị tuổi cao đức cả để tham vấn đạo Thiền. Còn như các kinh điển của đại gíao thì không kinh nào không nghiên cứu. Trẫm thường đọc Kinh Kim Cương, đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” vừa gấp sách lại ngâm nga, bỗng nhiên tỉnh ngộ, liền đem những điều giác ngộ được làm bài ca này, đặt tên là Thiền tông chỉ nam.”[7]
Tuy nhiên, sau khi đánh bại quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông, một cháu trai của vua Trần Thái Tông đã xây dựng thành công một ý thức hệ Phật giáo Việt Nam độc lập và thống nhất khắp cả nước, đó là thiền phái Trúc Lâm
- Sự tu tập của thiền phái Trúc Lâm:
Trần Nhân Tông là người sáng lập thiền phái Trúc Lâm. Tuy nhiên, thực tế, thiền phái được thành lập với sự đóng góp của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ[8].
Trong Khoá Hư Lục của Trần Thái Tông, Khoá có nghĩa là tu tập, Hư có nghĩa là không chấp thủ các khái niệm, tín điều hình thức, và Lục có nghĩa là những lời dạy. Vì vậy, Khoá Hư có nghĩa là tu tập mà không chấp thủ khái niệm và hình thức. Trần Thái Tông nói:
“Như chưa thấu Phật tâm ý Tổ; trước hãy nên trì giới tụng kinh. Đến lúc hay Phật là không, Tổ là không; thì giới chẳng cần trì, kinh không cần tụng. Trong ảo sắc cũng là chân sắc, nơi phàm thân cũng là pháp thân.”[9]
Ngoài ra, ngài chia thành ba hạng kẻ trí và khuyên mọi người tu tập theo thứ tự, từ thấp lên cao. Do có nhiều hạng người, thiền phái Trúc Lâm cống hiến nhiều phương pháp tu tập, như là, sám hối, niệm Phật, giữ gíơi, ngồi thiền, nghiên cứu kinh điển. Trần Thái Tông đã kết hợp tôn giáo và chính trị trong lời giảng của ngài. Chẳng hạn, trong giới cấm uống rượu, ngài nói: “Những ai ưa thích rượu thì mất sự chánh trực và phẩm chất tốt, những ai uống rượu thì nói năng nhầm lẫn…. từ đó đời họ mất và đất nước cũng mất.”[10]
Tuy nhiên, người trí thấy được chân nghĩa của việc giữ giới. Một hôm Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ về công đức giữ giới và được trả lời như sau:
“Trì giới và nhẫn nhục,
Chuốc tội chẳng chuốc phúc,
Muốn biết không tội phúc,
Đừng trì giới và nhẫn nhục.
Như khi người leo cây,
Đang yên tự tìm nguy,
Không trèo lên cây nữa,
Trăng gío làm được gì.”
Đoạn người dặn kín ta: “Chớ có bảo cho người không đáng bảo.”[11]
Xét về phương diện kinh điển, thường mỗi tông phái Phật giáo thiết lập quan điểm của mình trên một bộ kinh hay sớ giải. Nhưng thiền phái Trúc Lâm nghiên cứu hầu hết kinh điển trong Tam Tạng Kinh. Một sự kết hợp thiền với kinh là một đặc thù của thiền phái này khi so sánh với thiền của Huệ Năng ở Trung Quốc chủ trương ngộ Phật tánh hay chơn tâm mà không để ý đến lời lẽ hay kinh điển. Sự kết hợp ấy được minh hoạ trong thơ Trần Nhân Tông:
“Cảnh lặng, sóng yên, lòng tự tại,
Gió mát thổi đến dưới bóng cây thông,
Giường thiền ở dưới gốc cây, kinh một quyển,
Hai chữ thanh nhàn quý hơn vạn nén vàng.”[12]
Trong những pháp môn, thiền định quyết định và quan trọng nhất. Thiền để ngộ thực tại, tánh không của vạn pháp. Khi ngộ vạn pháp là giả, ảo thì tâm người ta cắt mọi duyên ràng buộc, không còn bám víu hay theo đuổi chúng nữa ngay cả cái gọi là thiền định. Trần Nhân Tông nói:
“Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ,
Cắt đứt mọi duyên quấn quít như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt.”[13]
Khi những ảo tưởng và dục vọng được dập tắt thì Phật và chúng sinh đồng nhất,
“Bụt ở cong nhà;
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuây bản nên ta tìm bụt;
Đến cốc hay chỉn bụt là ta.”
Chính tư tưởng Phật là Ta khẳng định thêm ý nghĩa độc lập trên cả hai phương diện chính trị và tôn giáo của những vị vua và thần dân dưới triều nhà Trần.
- Sự thống nhất Giáo hội:
Khác với Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông coi trọng hình thức của vấn đề. Nhằm thống nhất những ý thức hệ trong cả nước ngài đã chuẩn bị mọi thứ một cách cẩn thận.
Nhằm đánh dấu ngày xuất gia vào năm 1299, Trần Nhân Tông cho ấn hành Phật giáo Pháp sự, Đạo trường Tân văn và Công văn cách thức. Những sách này được dùng nhằm thống nhất mọi hình thức nghi lễ đương thời khắp cả nước.
Năm 1304, sau khi thọ giới, Trần Nhân Tông du hành khắp cả nước, khuyên mọi người hành trì Thập thiện, phá bỏ Dâm từ[14]. Vào lúc đó, người Việt dựa vào nhiều tín ngưỡng; thờ Sông, Núi, Sấm sét, Mưa, Mây, Cá sấu, bộ phận sinh dục… Ngài khuyên mọi người hãy theo Phật giáo Trúc Lâm, tín ngưỡng duy nhất của dân tộc. Phật giáo Trúc Lâm dùng Thập thiện làm nền tảng cho đạo đức xã hội. Trần Nhân Tông đã dùng Phật giáo Trúc Lâm như một ý thức hệ duy nhất nhằm thống nhất toàn dân thành một khối vững chắc và làm mạnh thể chế của triều đại mình.
II. VAI TRÒ CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, KINH TẾ, XÃ HỘI THỜI TRẦN NHÂN TÔNG
Trần Nhân Tông là một người văn võ song toàn, có tài có đức. Khi còn trẻ, ngài học thông tam giáo và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc.[15] Với cương vị lãnh đạo tối cao của dân tộc ngài đã thể hiện vai trò xuất sắc của mình trên nhiều phương diện.
Chính trị: Nhằm bảo vệ ngai vàng cũng như bảo vệ đất nước theo ba mục đích như được nêu trên, triều nhà Trần đặc biệt dưới thời Trần Nhân Tông là người đã biết sử dụng ý thức hệ Phật giáo Trúc Lâm như một khí cụ thống nhất và phát huy sức mạnh tổng lực của dân tộc. Sau chiến tranh, Trần Nhân Tông thực hiện một đường lối chính trị nhân đạo, chẳng hạn, ra lệnh đốt tất cả giấy tờ của những người xin đầu hàng giặc khi đang còn chiến tranh mà quân ta tịch thu được, làm cho mọi người yên tâm góp phần xây dựng đất nước.
Quân sự: Tài quân sự của triều nhà Trần nói chung và Trần Nhân Tông nói riêng được biểu hiện qua ba lần chiến thắng giặc Mông Cổ. Chỉ trong khoảng nửa thế kỷ đế quốc Mông Cổ đã bành trướng lãnh địa từ bờ tây Thái Bình Dương đến bờ đông Biển Đen. Người ta nói sức mạnh của chúng rằng: “Một khi guồng máy huỷ diệt bách chiến bách thắng của Mông Cổ chuyển động thì không gì có thể cản chúng được.”[16] Thế nhưng, khi đến Việt Nam, dù đã rút được kinh nghiệm đánh Việt từ nhà Tống cũng như sau trận thất bại đầu tiên vào năm 1258, đế quốc Mông Cổ vẫn bị hai lần thảm bại (1285 và 1287-88) dưới tài chỉ huy trực tiếp của vua Trần Nhân Tông.
Kinh tế: Vào năm 1293, chỉ trong thời gian bốn năm sau khi chiến tranh với Mông Cổ kết thúc với một nền kinh tế bị thiên tai và địch hoạ tàn phá nhưng nền kinh tế nước nhà dưới sự điều hành khéo léo của Trần Nhân Tông vẫn khởi sắc trên nhiều mặt như nông nghiệp, thương nghiệp trong nước, ngoài nước, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như được mô tả bởi hai viên sứ giặc[17].
Xã hội: Nhìn chung, xã hội Đại Việt thời bấy giờ được hoà bình, thịnh vượng như được ca ngợi bởi Trần Nguyên Đán, một vị hoàng tộc thời bấy giờ:
“Vận hội học thuật buổi Trung hưng hơn cả đời Hiên Viên, Phục Hy
Muôn họ ca hát thời thịnh trị
Tướng võ và quân hầu đều biết chữ
Thơ lại và thợ thuyền cũng biết làm thơ.”[18]
III. CHIẾN LƯỢC GIỮ NƯỚC LÂU DÀI CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Trần Nhân Tông thực hiện một chính sách ngoại giao mềm dẻo và khôn khéo nhằm vừa đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù, vừa duy trì hoà bình cho đất nước cũng như mở mang bời cõi:
- Trong thời gian còn chiến tranh, nhằm trả lời yêu cầu của Hoàng đế giặc đòi vua Trần Nhân Tông vào chầu, ngài đã sai sứ qua tạ tội và dâng người vàng để thay thế bản thân mình[19].
Sau khi nhường ngôi cho con (1293) và xuất gia (1294) Thượng hoàng Trần Nhân Tông vẫn tiếp tục những hoạt động vì dân vì nước[20]:
- Tinh thần nhập thế hay thế tục hoá Phật giáo của Trần Nhân Tông được thể hiện qua bài Cư trần lạc đạo phú, làm kim chỉ nam cho sự phát triển của Phật giáo ít lắm cũng kéo dài đến gần bốn thế kỷ tiếp theo (1300 – 1695).
- Dù đã xuất gia, Thượng hoàng Trần Nhân Tông cũng cầm quân đi đánh Ai Lao vào năm 1294.
- Tháng 2 năm 1295, tiếp phái bộ Lý Hành và Tiêu Thái Đăng do Nguyên Thành Tông lên ngôi gửi qua, báo việc bãi binh đánh Đại Việt. Và khi phái bộ này trở về nước, Thượng hoàng Trần Nhân Tông sai nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo mang thư qua thỉnh Đại Tạng Kinh.
- Năm 1301 Thượng hoàng vi hành xa đến Chiêm Thành, năm 1306 gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm và năm 1307 được vua Chiêm Chế Mân làm lễ dâng cúng đất đai hai châu Ô, Lý tức Thần Châu và Hoá Châu hay Thuận Hoá, kinh đô của đất nước sau đó.
- Năm 1304, Thượng hoàng đi khắp các xóm làng để giáo hoá và trừ bỏ các việc thờ cúng kỳ lạ, dạy cho họ thực hành mười điều thiện như là một “chính sách quốc gia” của Phật giáo Việt Nam mà trước đó hơn nghìn năm đã được ghi trong Lục độ tập kinh, một tác phẩm của Khương Tăng Hội.
IV. KẾT LUẬN
Qua vài phân tích dựa vào một ít tài liệu lịch sử còn lại về cuộc đời và sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông ta có thể rút ra một số kết luận sau:
- Tư tưởng thông qua những chủ trương, chính sách của bộ máy nhà nước mà hợp với đạo lý và thuận lòng dân thì công việc bảo vệ và xây dựng đất nước ắt sẽ thành công.
- Vấn đề an ninh của tổ quốc, cảnh giác với thù trong và giặc ngoài, luôn cần phải được quan tâm.
- Trần Nhân Tông, một chiến lược gia toàn diện của Phật giáo Việt Nam, mọi tư duy và hành động của ngài đều vì một dân tộc Việt Nam trường tồn và hạnh phúc.
Thích Tâm Đức
(Tp. HCM 17/11/2008)
———–
[1] Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương Loại chí, II, Viện Sử học Việt Nam dịch, Hà Nội, 1961, tr. 7.
[2] Ibid., tr. 9.
[3] Trần Thái Tông, Khoá Hư Lục, Thích Thanh Kiểm dịch, HCM, 1992, tr. 58.
[4] Vào năm 1069, nhằm trừ mối đe doạ từ phương Nam người Việt đã đánh Champa và bắt vua Rudravarman IV cùng 50.000 người. Cũng vậy, ở phương Bắc người Việt đã đánh bại quân Tống vào năm 1075 và 1077.
[5] UBKHHVN-Viện Văn Học, Thơ văn Lý Trần, II, Hà Nội, 1989, tr. 28.
[6] Ibid., tr. 29.
[7] UBKHHVN-Viện Văn Học, Op. Cit., tr. 29.
[8] Thầy dạy của Trần Nhân Tông.
[9] UBKHHVN-Viện Văn Học, Op. Cit., tr. 55.
[10] Trần Thái Tông, Khoá Hư Lục, Op. Cit, tr. 56.
[11] UBKHHVN-Viện Văn Học, Op. Cit., tr. 546.
[12] Ibid., tr. 535.
[13] Ibid., tr. 489.
[14] Hình thức thờ Linga được du nhập từ vùng Champa.
[15] Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, HCM: nxb Tổng Hợp, 2006, tr. 34.
[16] E.O.Reischauer and J.K.Fairbank, East Asia and the Great Tradition, Boston: Havard University, 1960, p. 266.
[17] Ibid., tr. 146-150.
[18] UBKHXHVN-Viện Sử học, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần, Hà Nội: NXBKHXH, 1981, tr. 522.
[19] Lê Mạnh Thát, Op. Cit, tr.152.
[20] Ibid., tr. 174 -186.